Bát Cương - Nền Tảng Chẩn Đoán Trong Y Học Cổ Truyền
Dr Duong Khai
20 May, 2025
8 lượt xem
0 bình luận
0 lượt thích
Bài viết trình bày chi tiết về bát cương - tám nguyên tắc cơ bản trong chẩn đoán y học cổ truyền, giúp người thầy thuốc đánh giá được vị trí, tính chất, trạng thái và xu thế hướng tiến triển của bệnh tật, từ đó đề ra phương pháp chữa bệnh chính xác và hiệu quả.
Trước triệu chứng phức tạp của bệnh tật, người thầy thuốc phải dựa vào bát cương để đánh giá được vị trí, tính chất, trạng thái và xu thế hướng tiến triển của bệnh tật, giúp cho công việc chẩn đoán nguyên nhân bệnh và đề ra được các phương pháp chữa bệnh chính xác và có hiệu quả.
Bát cương bao gồm: biểu và lý (ngoài, trong); hàn và nhiệt (nóng, lạnh); hư và thực; âm và dương. Trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát, nên gọi là tổng cương.
I. Nội dung bát cương
1. Biểu và lý
Chẩn đoán về giai đoạn của bệnh
Biểu và lý là hai cương lĩnh đầu tiên trong 8 cương lĩnh để xác định về bệnh tật, chức năng của nó là đánh giá và xác định vị trí nông sâu của bệnh tật, giúp cho khả năng tiên lượng bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp (bệnh tại biểu thường dùng các phép phát tán, bệnh tại lý thì hay dùng các phép thanh, hạ, ôn, bổ ..)
a. Biểu chứng
Thường do ngoài tà gây bệnh. Bệnh ở biểu hay bệnh ở phần vệ là chỉ bệnh còn ở bên ngoài, ở phần nông (gân xương, cơ nhục, kinh lạc), bệnh mới mắc hay bệnh còn ở giai đoạn đầu khởi phát của bệnh (ví dụ: các bệnh thuộc cảm mạo, các bệnh truyền nhiễm…)
Các triệu chứng biểu hiện của bệnh trên lâm sàng:
- Phát sốt sợ gió
- Sợ lạnh
- Đau đầu
- Đau mình mẩy
- Ngạt mũi và ho
- Rêu lưỡi trắng mỏng
- Mạch phù
b. Lý chứng
Là chỉ bệnh ở bên trong, ở sâu, thường là bệnh thuộc các tạng, bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn toàn phát có biến chứng gây mất tân dịch (nước, điện giải, máu) theo y học cổ truyền gọi tổn thương đến phần dinh – khí - huyết.
Các biểu hiện trên lâm sàng:
- Sốt cao – khát
- Mê sảng, vật vã
- Chất lưỡi đỏ, rêu vàng
- Nước tiểu đỏ, ít
- Nôn, đau bụng
- Phân táo hoặc ỉa chảy
- Mạch trầm
Bệnh ở lý có thể từ ngoài truyền vào, nhưng cũng có thể là do tà khí trúng ngay tạng phủ, nguyên do tình chí làm rối loạn hoạt động của các tạng phủ.
Sự phân biệt bệnh tại biểu hay tại lý thường dựa vào các tiêu chí sau:
- Sốt cao hay sốt kèm theo sợ lạnh
- Chất lưỡi đỏ hay nhạt
- Rêu lưỡi vàng hay trắng
- Mạch phù hay mạch trầm
Biểu và lý còn có sự phối hợp khác nhau với các cương lĩnh khác như với hư và thực, với hàn và nhiệt, có cả sự thác tạp giữa biểu chứng và lý chứng.
2. Hàn và nhiệt
Chẩn đoán tính chất bệnh
Hàn và nhiệt là hai cương lĩnh đánh giá tính chất của bệnh, giúp cho thầy thuốc chẩn đoán các loại hình của bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh hợp lý (bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn; nhiệt thì châm, hàn thì cứu).
a. Hàn chứng
- Sợ lạnh
- Thích ấm
- Miệng nhạt không khát
- Sắc mặt xanh trắng
- Tay chân lạnh
- Nước tiểu trong dài
- Đại tiện lỏng
- Chất lưỡi nhạt
- Rêu lưỡi trắng trơn ướt
- Mạch trầm trì
b. Nhiệt chứng
- Sốt hoặc sốt cao nhưng thích mát
- Sắc mặt đỏ
- Tay chân nóng
- Tiểu tiện ngắn đỏ
- Đại tiện táo
- Chất lưỡi đỏ
- Rêu lưỡi vàng và khô
- Mạch sác
Sự phân biệt hàn chứng và nhiệt chứng tập trung vào các triệu chứng sau:
- Sốt nhưng sợ nóng hay lạnh thích ấm
- Khát hay không khát
- Sắc mặt đỏ hay trắng xanh
- Tay chân nóng hay lạnh
- Tiểu tiện đỏ ít hay trong dài
- Đại tiện táo khô hay ỉa chảy
- Rêu lưỡi vàng hay trắng
- Mạch trì hay mạch sác
Hàn chứng thuộc về âm thịnh và nhiệt chứng thuộc dương thịnh. Hàn nhiệt còn phối hợp với các cương lĩnh khác như biểu lý, hư thực, ngoài ra còn có hàn nhiệt lẫn lộn, thực giả.
3. Hư và thực
Đánh giá trạng thái người bệnh và tác nhân gây bệnh - mức độ bệnh
Hư và thực là hai cương lĩnh dùng để đánh giá trạng thái người bệnh và tác nhân gây bệnh, để thầy thuốc áp dụng nguyên tắc điều trị bệnh (hư thì bổ, thực thì tả).
a. Hư chứng
Biểu hiện của chính khí suy yếu (không đầy đủ), nên sự phản ứng (đề kháng) của cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh giảm sút. Chính khí của cơ thể (đề kháng) bao gồm 4 mặt chính là Âm, Dương, Khí, Huyết, trên lâm sàng có biểu hiện triệu chứng của chính khí giảm sút là âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư.
Những biểu hiện chung triệu chứng trên lâm sàng:
- Tinh thần yếu đuối
- Sắc mặt trắng bợt
- Mệt mỏi không có sức
- Thể trạng sút cân gầy
- Hồi hộp, thở ngắn
- Ngại nói
- Tự ra mồ hôi hoặc mồ hôi trộm
- Tiểu nhiều lần hoặc không tự chủ
- Chất lưỡi nhạt
- Mạch tế nhược
b. Thực chứng
Là do cảm phải ngoại tà hay do khí trệ, huyết ứ, đàm tích, ứ nước, giun sán gây bệnh.
Các biểu hiện chính trên lâm sàng:
- Tiếng thở thô mạnh
- Phiền táo
- Ngực bụng đầy chướng
- Đau cự án
- Phân táo, mót rặn
- Bí tiểu tiện, đái buốt và rắt
- Rêu lưỡi vàng
- Mạch thực hữu lực
Sự phân biệt hư và thực chứng căn cứ vào các tiêu chí sau:
- Bệnh cũ hay bệnh mới
- Tiếng nói, hơi thở nhỏ hay to
- Dấu hiệu cự án hay thiện án
- Chất lưỡi dày cộm hay mềm bệu
- Mạch vô lực hay hữu lực
Hư và thực còn phối hợp với các cương lĩnh khác: hư thực lẫn lộn, thực giả lẫn lộn.
Nguồn: yhoccanban.com
Về tác giả
Xin chào mọi người! Tôi là Bác sĩ Khải, chuyên gia Tim mạch với niềm đam mê giúp bệnh nhân có trái tim khỏe mạnh. Khi không ở bệnh viện, tôi thường tìm thấy niềm vui trong việc chạy bộ, đọc sách về dinh dưỡng và chia sẻ kiến thức tim mạch qua các bài viết
Chưa có bình luận nào. Hãy là người đầu tiên bình luận!